Lịch sử Đế quốc Akkad

Trước thời Sargon của Akkad

Tên gọi Đế chế Akkad bắt nguồn từ tên vùng đất và thành thị Akkad. Mặc dù vị trí của thành phố Akkad vẫn chưa được xác định rõ, thế nhưng chúng ta vẫn biết được nó thông qua các nguồn văn kiện khác nhau. Trong số này có ít nhất một văn bản có niên đại trước thời kỳ của Sargon. Cùng với thực tế đó là cái tên Akkad lại có nguồn gốc không phải từ tiếng Akkad, điều này cho thấy thành phố Akkad có thể đã bị chiếm đóng trong giai đoạn trước thời của Sargon.[12][22]

Sargon của Akkad

Bài chi tiết: Sargon của Akkad
Sargon trên bia chiến thắng, với búi tóc hoàng gia, tay cầm chùy và khoác áo bào, theo sau là người hầu che lọng.[23][24] Chữ "Vua Sargon" được khắc ở phía trước mặt. [23][25] Bảo tàng Louvre .

Sargon của Akkad đã đánh bại và bắt sống Lugal-zage-si của Sumer trong trận Uruk và thôn tính vùng đất này. Những ghi chép cổ nhất bằng tiếng Akkad có niên đại từ thời Sargon. Sargon được cho là con của La'ibum hoặc Itti-Bel, một người làm vườn hoặc một nữ tu trong đền thờ Ishtar/Inanna.[26][27] Từ một cận thần của vua Ur-Zababa của Kish, Sargon trở thành người phụ trách các công việc thủy lợi và có ảnh hưởng lớn trong triều đình.[28] Sau khi lật đổ Ur-Zababa, Sargon lên ngôi và bắt đầu công cuộc xâm chiếm các vùng đất khác.[29] Ông đã bốn lần xâm lược SyriaCanaan, và dành ba năm để thu phục hoàn toàn các nước ở phía tây rồi hợp nhất với Lưỡng Hà thành một đế chế thống nhất.

Không dừng lại ở đó, Sargon tiếp tục các cuộc xâm lược để mở rộng đế chế: về phía tây đến Biển Địa Trung Hải và thể là cả Síp (Kaptara); về phía bắc đến vùng núi; về phía đông đến Elam; và về phía nam đến Magan (Oman). Ông trị vì đế chế trong 56 năm và đưa các quý tộc Akkad lên cai trị các lãnh thổ chư hầu.[30]

Việc trao đổi hàng hóa được mở rộng từ các mỏ bạc ở Anatolia đến các mỏ lapis lazuli ở Afghanistan hiện đại, tuyết tùngLebanonđồng ở Magan. Sự thống nhất giữa các thành bang Sumer và Akkad phản ánh sức mạnh kinh tế và chính trị ngày càng gia tăng của Lưỡng Hà. Lương thực chủ yếu là lúa mì, được cũng cấp bởi hệ thống nông nghiệp tưới nước mưa ở Assyria.

Tượng và phù điêu mang hình ảnh của Sargon được dựng lên dọc các vùng đất bên bờ Địa Trung Hải để thể hiện những chiến thắng của ông, các thành phố và cung điện ở Akkad được xây dựng bằng các chiến lợi phẩm giành được từ các vùng đất thua trận. Đế chế Akkad chinh phục Elam và vùng Bắc Lưỡng Hà (Assyria/Subartu) và dập tắt các cuộc nổi dậy ở Sumer. Sargon tự hào rằng đế chế đã khuất phục được "tứ phương", bao gồm các vùng đất bao quanh Akkad ở phía bắc (Assyria), phía nam (Sumer), phía đông (Elam) và phía tây (Martu). Một số tài liệu cổ (ABC 19, 20) thể hiện rằng ông đã cho xây dựng lại thành phố Babylon (Bab-ilu) ở vị trí mới gần Akkad.[31]

Trong suốt cuộc đời mình, Sargon tỏ ra đặc biệt tôn kính các vị thần Sumer, đặc biệt là nữ thần bảo trợ của ông - Inanna (Ishtar) - và Zababa, thần chiến binh của Kish. Ông tự xưng mình là "Tư tế của Anu" và "đại ensi của Enlil" ("ensi" nghĩa là vị vua tu sĩ) và để con gái Enheduanna làm nữ tư tế đền thờ NannaUr.

Vào những năm cuối triều đại của Sargon, nhiều cuộc nổi dậy diễn ra ở khắp nơi nhưng đều bị dập tắt tàn khốc.[32]

Rimush và Manishtushu

Quân lính Akkad tiêu diệt kẻ thù, k. 2300 TCN, có thể từ một tấm bia chiến thắng của Rimush.[33]

Sau khi Sargon qua đời, những cuộc nổi dậy nổ ra trong suốt 9 năm trị vì của con trai ông, Rimush (2278–2270 TCN). Theo các ghi chép, Rimush phải đối mặt với các cuộc nổi dậy lan rộng tại Ur, Umma, Adab, Lagash, Der, và Kazallu.[34] Rimush đã cho thực hiện những cuộc tàn sát hàng loạt và phá hủy các thành phố Sumer.[35][35][36]

Sau khi Rimush bị ám sát bởi một số triều thần vào năm 2270 TCN, anh trai của ông là Manishtushu (2269–2255 TCN) lên kế vị. Có thể ông ta đã có một trận thủy chiến chống lại liên minh 32 vị vua và giành được quyền kiểm soát các vùng đất tiền Ả Rập, thuộc các Tiểu vương quốc Ả RậpOman ngày nay. Mặc dù vậy, Manishtushu cũng có thể đã bị ám sát giống như em trai của mình bởi các âm mưu trong triều đình.[37][38]

Naram-Sin

Chân dung Naram-Sin. Bảo tàng khảo cổ Istanbul

Con trai và người kế vị của Manishtushu, Naram-Sin (2254–2218 TCN), mang danh hiệu "Vua Naram-Sin, vua của bốn phương" (Lugal Naram-Sîn, Šar kibrat 'arbaim) nhờ những cuộc chinh phạt hùng hậu của mình. Ông cũng là vị vua đầu tiên trong văn hóa Sumer tự xưng là "thần" (Tiếng Sumer: DINGIR, Tiếng Akkad = ilu) của Agade" (Akkad), trái ngược với truyền thống trước đây rằng các vị vua chỉ là đại diện của người dân trước các vị thần.[39][40] Ông cũng phải đối mặt với các cuộc nổi dậy vào đầu thời kỳ trị vì của mình[41] nhưng đã dẹp tan chúng nhanh chóng.

Naram-Sin cũng cho ghi chép lại cuộc xâm lược Ebla và Armanum (có thể nằm ở Syria, hoặc Aleppo, hoặc miền bắc Iraq, vị trí cụ thể vẫn đang còn tranh cãi).[42][42][43][44][45]

Naram-Sin đã xây dựng một cung điện tại Tell Brak, một ngã tư ở trung tâm lưu vực sông Khabur của Jezirah. Ông đánh tan cuộc nổi dậy ở Magan, nơi đặt các trại đồn trú để bảo vệ các tuyến đường chính. Ông cũng thường xuyên phải chống lại các mối đe dọa từ các dãy núi phía bắc Zagros, Lulubis và Gutians. Các nguồn Hitti ghi lại việc Naram-Sin tiến vào Anatolia, chiến đấu với các vị vua Hitti và Hurri, bao gồm Pamba của Hatti, Zipani của Kanesh và 15 người khác.

Nền kinh tế được kế hoạch hóa ở mức độ cao. Ngũ cốc đã được làm sách và dầu được phân phối theo khẩu phần bằng các bình gốm tiêu chuẩn. Thuế được trả bằng sản phẩm và công lao động tại tường thành, đền thờ, kênh mương thủy lợi và đường thủy, tạo ra mức thặng dư nông nghiệp khổng lồ.[46] Akkad trở nên giàu có nhờ điều kiện khí hậu ôn hòa, thặng dư nông nghiệp và cướp bóc từ các vùng đất khác.[47]

Trong các văn bản tiếng Assyria và Babylon sau này, cái tên Akkad, cùng với Sumer, xuất hiện như một phần của tước hiệu hoàng gia, như trong tiếng Sumer "LUGAL KI-EN-GI KI-URI" hoặc tiếng Akkad "Šar māt Šumeri u Akkadi",[48] nghĩa là "vua của Sumer và Akkad."[49] Danh hiệu này được tự xưng bởi vị vua nắm quyền kiểm soát Nippur,[48] trung tâm văn hóa và tôn giáo của miền nam Lưỡng Hà.

Trong thời kỳ Akkad, tiếng Akkad đã trở thành ngôn ngữ chung của vùng Trung Đông, và chính thức được sử dụng trong hành chính, mặc dù tiếng Sumer vẫn được dùng trong ngôn ngữ nói và văn học. Tiếng Akkad được phổ biến từ Syria đến Elam, thậm chí tiếng Elam cũng có một thời gian được viết bằng chữ hình nêm Lưỡng Hà. Các văn bản tiếng Akkad sau đó được mang đến những nơi xa xôi hơn, từ Ai Cập (trong Thời kỳ Amarna) và Anatolia cho đến Ba Tư (Behistun).

Sự thần phục của các vị vua Sumer

Sự thần phục của một số vị vua Sumer đối với Đế chế Akkad được ghi lại trong các bản khắc trên con dấu Sumer, bao gồm Lugal-ushumgal, ensi của Lagash ("Shirpula"), k. 2230-2210 TCN. Một số bản khắc nhắc đến Lugal-ushumgal như người cai trị Lagash và là chư hầu (𒀵, arad, "bề tôi" hoặc "nô lệ") của Naram-Sin và người kế vị Shar-kali-sharri.[50][51][52][53] Một trong những con dấu này nói rằng:

"Naram-Sin, vị thần quyền năng của Agade (Akkad), vua của bốn phương, Lugal-ushumgal, kinh sư, ensi của Lagash, là bề tôi của ngài."

Cũng có thể coi Lugal-ushumgal là người ủng hộ Đế chế Akkad, cũng như Meskigal, vua của Adab.[56] Tuy nhiên, người kế vị Lugal-ushumgal là Puzer-Mama, đã giành độc lập từ tay Shar-Kali-Sharri khi Akkad suy yếu, tự xưng là "Vua của Lagash" và mở ra Vương triều thứ hai của Lagash.[57][58]

Suy tàn

Đế chế Akkad có thể sụp đổ vào khoảng thế kỷ 22 TCN, sau 180 năm tồn tại, mở ra một "Thời kỳ tăm tối" cho đến Vương triều thứ ba của Ur. Khu vực có thể đã quay trở lại tình trạng chính quyền cát cứ ở các thành bang.[59] Đế chế bắt đầu tan rã từ cuối triều đại của Sharkalisharri.[60] Shu-turul tuy đã giành lại phần nào quyền lực tập trung nhưng vẫn không thể chống lại được những cuộc xâm lược của bộ lạc Guti từ dãy núi Zagros.

Người ta không biết nhiều thông tin về thời kỳ Guti hay thời gian tồn tại của nó. Các nguồn tài liệu chữ hình nêm cho thấy chính quyền Guti tỏ ra ít quan tâm đến canh tác nông nghiệp, ghi chép hoặc trật tự công cộng. Họ được cho là đã cho thả rông tất cả các gia súc đi lang thang khắp vùng Lưỡng Hà và gây ra nạn đói, đẩy giá ngũ cốc tăng cao. Cuối cùng, vị vua Sumer Ur-Nammu (2112–2095 TCN) đã quét sạch người Guti ra khỏi Lưỡng Hà, bắt đầu triều đại Ur thứ ba.

Khoảng thời gian k. 2112 - 2004 TCN được gọi là thời kỳ Ur III. Các tài liệu lại bắt đầu được viết bằng tiếng Sumer, mặc dù tiếng Sumer đã trở thành một ngôn ngữ được sử dụng thuần túy cho mục đích văn học hoặc tôn giáo, giống như địa vị của tiếng LatinhChâu Âu thời Trung Cổ sau này.[61]

Một giả thuyết khác cho rằng sự suy tàn của đế chế Akkad chỉ đơn giản là do triều đại Akkad không còn duy trì được vị thế chính trị độc tôn của mình đối với các thành bang độc lập hùng mạnh khác.[59][62]

Có nhiều ý kiến cho rằng khí hậu khô hạn dẫn đến hạn hán và đất nhiễm mặn đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế Akkad cũng như các quốc gia khác ở vùng Cận Đông cổ đại vào khoảng tnăm 2200 TCN, tuy nhiên nguyên nhân này vẫn đang gây nhiều tranh cãi.[63][64][65][66]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế quốc Akkad http://128.97.6.202/attach/Buccellati%202002%20Tar... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... //citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/summary?doi=10.1.1... http://oi.uchicago.edu/pdf/OIS2.pdf http://oi.uchicago.edu/pdf/ois4.pdf http://oi.uchicago.edu/sites/oi.uchicago.edu/files... http://cdli.ucla.edu/tools/yearnames/HTML/T2K3.htm http://cdli.ucla.edu/tools/yearnames/HTML/T2K4.htm http://oracc.iaas.upenn.edu/epsd2/cbd/sux/A.html http://www.cddc.vt.edu/feminism/enheduanna.html